Phố Trích Sài là một trong những tên đường phố mới có chiều dài 1.620m; rộng: 8,5 – 11,5m, cho đoạn từ cuối đường Văn Cao đến đường Lạc Long Quân quận Tây Hồ – Hà Nội. Là con đường rải nhựa átphan rất đẹp, có cây xanh ven theo 2 bên đường và Hồ Tây, có đèn chiếu sáng, hạ tầng cơ sở rất ổn định, một bên đường là khu biệt thự Hồ Tây, với những danh lam nổi tiếng như: chùa cổ Võng Thị, đình làng Trích Sài, một bên đường là cảnh đẹp Hồ Tây.
Phố Trích Sài là một trong những tên đường phố mới có chiều dài 1.620m; rộng: 8,5 – 11,5m, cho đoạn từ cuối đường Văn Cao đến đường Lạc Long Quân quận Tây Hồ – Hà Nội. Là con đường rải nhựa átphan rất đẹp, có cây xanh ven theo 2 bên đường và Hồ Tây, có đèn chiếu sáng, hạ tầng cơ sở rất ổn định, một bên đường là khu biệt thự Hồ Tây, với những danh lam nổi tiếng như: chùa cổ Võng Thị, đình làng Trích Sài, một bên đường là cảnh đẹp Hồ Tây.
Phố: dài hơn 1km; từ đường Xuân Diệu rẽ vào khu biệt thự Hồ Tây, ra tới phủ Tây Hồ, trên bán đảo nhô ra hồ Tây.
Đất thôn Tây Hồ, xã Quảng An, huyện Từ Liêm, trước là phường Tây Hồ, tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận cũ. Xưa có xóm Cung (nay là xóm Quảng Khánh và xóm Trong), bán đảo nhô ra hồ có Phủ Tây Hồ thờ mẫu Liễu Hạnh, di tích đã được xếp hạng và đền Kim Ngưu (Trâu Vàng). Cạnh đường có chùa Phổ Linh (xưa là Địa Linh) có từ thế kỷ XI. Từ năm 1996 thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ. Tên phố mới đặt năm 1995.
Đường: dài 3,5km; từ ngã ba Nhật Tân – chỗ đường Lạc Long Quân gặp đường Âu Cơ – chạy trên đê sông Hồng tới ngã ba đi Chèm với đường Nam Thăng Long (mới đặt tên là đường Phạm Văn Đồng).
Đất các xã Nhật Tân, Phú Thượng, Đông Ngạc của huyện Từ Liêm trước. Nay thuộc các phường Nhật Tân, Phú Thượng, quận Tây Hồ và xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm. Cạnh đường có đình Vẽ và đình Nhật Tân – di tích lịch sử xếp hạng năm 1994.
Trước dân thường gọi: đê Nhật Tân – Phú Xá. Tên mới đặt tháng 7-2001.
Đường Nhật Chiêu là con phố mới tại quận Tây Hồ thành phố Hà Nội có chiều dài hơn 1 km; mặt đường trải nhựa rộng: 9,5m – 11,5m, cho đoạn từ vườn hoa cuối đường Nguyễn Hoàng Tôn đến công viên nước Hồ Tây, thuộc phường Nhật Tân, quận Tây Hồ. Đường rải nhựa atphan, có vỉa hè rộng và cây xanh hai bên đường, có đèn chiếu sáng, hạ tầng cơ sở và dân cư ổn định.
Nhật Chiêu là tên cổ của Nhật Tân nằm ở phía Bắc của hồ Tây và trải cả hai bên Đông và Tây, năm 1890 vì kỵ húy vua Thành Thái (Nguyễn Phúc Chiêu) nên đổi thành Nhật Tân.
Làng Nhật Tân hiện nay có 4 thôn cách nhau bằng những cánh đồng hoa sen và quất đào, trong đó thôn Tây lớn nhất và đông dân hơn cả do có vị trí địa lý thuận lợi với địa điểm bến Trại Cá (nay là một cơ sở quốc doanh cá Hồ Tây). Thôn Nam (xóm Lò) có nghề trồng hoa cúc, nay với những danh lam nổi tiếng cạnh hồ như: ngôi chùa Tào Sách (Linh Sơn tự). xưa kia Thôn Bắc và thôn Đông chủ yếu chuyên nghề nông nghiệp, ở đây có di tích thờ bảy vị thành hoàng là Uy Linh Lang con của bà Lạc Phi thời Lý.
Ngày nay với việc cải tạo đường ven hồ, phố Nhật Chiêu lại là một trong những phố đẹp của quận tây Hồ, thu hút rất nhiều khách tham quan từ các tỉnh và dân quanh thành phố Hà Nội.
Đường: dài từ ngã ba với đường Nghi Tàm đến ngã ba đầu thôn Quảng Bá, gặp đê sông Hồng, đường chạy qua đầu các đường Đặng Thai Mai, Tây Hồ, Tô Ngọc Vân; nơi xưa có rặng ổi kéo dài một đoạn đầu Nghi Tàm.
Đất phường Nghi Tàm, Tây Hồ, Quảng Bá, tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận cũ; sau thuộc huyện Từ Liêm; khi lập quận Tây Hồ, xã Quảng An thành phường (1996). Cạnh đường xuống phía hồ Tây có di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Kim Liên (Hoàng Ân tự) xếp hạng năm 1962. Nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ.
Dân đặt là đường Tây Hồ trước khi có tên chính thức.
Đường: dài 1,5km, từ Ô Yên Phụ, đầu dốc đường Thanh Niên, chạy trên đê sông Hồng, đến phố Hàng Đậu (đầu cầu Long Biên).
Đất của nhiều phường, thôn: Yên Hoa, Trúc Bạch, Cận Hàn, Yên Ninh, Thạch Khối, Hoè Nhai, Phúc Lâm, tổng Thượng và tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận cũ. Nay thuộc hai phường: Trúc Bạch và Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình.
Thời Pháp thuộc gọi là đê Yên Phụ (Digue Yên Phụ)
Phố: dài 650m, từ ngã ba Nghi Tàm, đến dốc Yên Phụ, nối với đường Yên Phụ. Con đường phố này chạy giữa làng Yên Phụ cổ, men theo phía bắc hồ Tây, xưa là phường Yên Hoa, sau đổi là Yên Phụ, thuộc tổng Thượng, huyện Vĩnh Thuận cũ. Khi mới làm đường có tên dân gian là phố đường Cái.
Nay thuộc phường Yên Phụ, quận Tây Hồ.
Trên bản đồ hiện nay thường đồng nhất phố và đường Yên Phụ là một. Làng Yên Phụ (phường Yên Hoa cũ) có hai xóm Diu ở sát mép hồ, còn chiếc cổng làng trên phố Yên Phụ và xóm Giữa ở giữa phố và đường (đê). Đình, chùa Yên Phụ là di tích kiến trúc nghệ thuật được xếp hạng năm 1990.
Đường Xuân La nằm trên địa bàn quận Tây Hồ thành phố Hà Nội có chiều dài gần 1km, mặt đường rộng 40m có vỉa hè, cho đoạn từ số nhà 451 Lạc Long Quân đến đầu cổng chào Xuân Đỉnh. Đoạn giữa của đường Xuân La giao cắt với đường Võ Chí Công nên rất thuận tiện đi về trung tâm hoặc đi Nội Bài.
Xuân La nay thuộc quận Tây Hồ nằm ở phía tây của Hồ Tây. Đây là vùng đất cổ của Hà Nội, nổi tiếng với các ngôi chùa: Khai Nguyên, Thiên Niên, Vạn Niên, Ức Niên và Đền Sóc.
Xuân La được thành lập trong thời kì kháng chiến trống Pháp trên cơ sở sáp nhập các làng Quán La xã, Quán La sở, Xuân Tảo sở và Vệ Hồ. Khi thành lập, Xuân La thuộc quận Lãng Bạc, sau thuộc huyện Ngoại thành.
Sau khi Hà Nội được giải phóng vào năm 1954, Xuân La thuộc quận V của ngoại thành Hà Nội. Từ năm 1961, Xuân La thuộc huyện Từ Liêm.
Tháng 10 năm 1995, Xuân La chuyển thành một phường thuộc quận Tây Hồ mới thành lập.
Đường: dài 3km; từ ngã ba Nhật Tân – Lạc Long Quân đến ngã ba Nghi Tàm (trước khách sạn Thắng Lợi).
Nguyên là đường đê sông Hồng, chạy trên đất các làng Nhật Tân, Quảng Bá, Tứ Liên huyện Từ Liêm trước, nay thuộc phường Nhật Tân, Quảng An và Tứ Liên quận Tây Hồ. Tên mới đặt tháng 1-1999.
Phố Vệ Hồ nằm trên địa bàn quận Tây Hồ thành phố hà Nội có chiều dài trên 1 km; mặt đường rộng từ 9,5m – 11,5m, cho đoạn từ số nhà 451 Lạc Long Quân đến vườn hoa cuối đường Nguyễn Hoàng Tôn (cạnh ủy ban quận Tây Hồ), thuộc phường Xuân La, quận Tây Hồ. Đường rải nhựa đẹp, 2 bên đường có cây xanh, có đèn chiếu sáng, hạ tầng cơ sở và dân cư ổn định.
Phường Xuân La ngày nay gồm có hai thôn: thôn Thượng còn gọi là Vệ Hồ, thôn Hạ được gọi là Xuân Tảo Sở nằm ở phía tây Hồ Tây, thuộc tổng Trung (cùng một tổng với Trích Sài, Bái Ân). Làng có nhiều lần đổi tên khác nhau, trước kia Xuân Tảo Sở và Xuân Tảo Xã gộp lại là Minh Tảo Xã, sau được chia thành Quán La Xã thuộc tổng Phú Gia, phủ Hoài Đức và Xuân Tảo Sở thuộc tổng Trung, huyện Hoàn Long.
Đường Vệ Hồ ngày nay là điểm đến của rất nhiều đôi thanh niên nam nữ và khách du lịch từ các nơi trong thành phố và các tỉnh cũng như du khách nước ngoài đến, thưởng ngoạn cảnh đẹp, chiêm bái những di tích lịch sử.
Đường: dài 700m; từ đường Lạc Long Quân chạy cạnh trụ sở Ủy ban nhân dân quận Tây Hồ đến giáp địa phận huyện Từ Liêm.
Đất đai hai xã Phú Thượng và Xuân La huyện Từ Liêm trước, nay là đường giáp ranh giữa hai phường Xuân La và Phú Thượng, quận Tây Hồ.
Phố: dài 120m; từ phố Thụy Khuê đến đường Hoàng Hoa Thám, nối với đường vào trường đua ngựa cũ. Đất phường Thụy Chương, tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận cũ.
Nay thuộc phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ. Thời Pháp thuộc vẫn gọi là dốc Tam Đa. Do ở đầu dốc có hiệu thuốc bắc của người Hoa có bày ba tượng Phúc – Lộc – Thọ mà thành tên.
Phố: dài 500m; từ số 143 An Dương Vương đến chợ Phú Gia, phường Phú Thượng: quận Tây Hồ, Tên mới đặt tháng 1 – 2006.
Phú Gia: là tên một trong 3 thôn của xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm, nay là phường Phú Thượng, quận Tây Hồ. Đây là nơi đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về Hà Nội sau Cách mạng tháng 8-1945.
Việc lựa chọn để đặt tên cho đường phố này là hết sức quan trọng nhằm bảo tồn những địa danh đã gắn liền với lịch sử và văn hóa của dân tộc. Cùng với sự phát triển của thủ đô Hà Nội, quận Tây Hồ thuộc khu vực phát triển của Thành phố trung tâm. Như vậy, trong tương lai, Tây Hồ sẽ là khu vực trung tâm của thủ đô Hà Nội. Với vị trí đó, Tây Hồ có điều kiện đặc biệt thuận lợi thu hút các nguồn lực (bao gồm cả nguồn vốn tài chính, nguồn nhân lực và khoa học – công nghệ) để thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội của Quận nói riêng và của thủ đô Hà Nội nói chung.
Ngày nay quận Tây Hồ với nhiều khu đô thị nổi tiếng Hà Nội như: đô thị Tây Hồ Tây, khu chung cư 6th element, khu đô thị Sunshine City, Khu chung cư cao cấp Kosmo Tây Hồ, Khu chung cư Watermark Hồ Tây tạo thành quần thể đẹp cho quận Tây Hồ.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1397 Hồ Quý Ly khi ấy là thái sư của nhà Trần đã cho xây dựng một thành trì ở An Tôn (Thanh Hóa), đặt tên là Tây Đô (hay Tây Giai). Cách gọi này là để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long, Hà Nội).
Tháng 11 năm đó, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông dời kinh đô đến nơi này. Khi nhà Hồ tiếm ngôi, Tây Đô được chọn là kinh đô của nước Đại Ngu.
"Thành nhà Hồ", tên gọi khác của Tây Đô, là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo, quy mô lớn, có một không hai ở Việt Nam và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành gồm thành nội và thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng gần 100.000 mét khối, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao quanh.
Thành nội có toàn bộ mặt ngoài tường thành và 4 cổng chính xây bằng những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các bức tường thành được ghép từ những khối đá lớn, có phiến dài tới hơn 6 m, ước nặng 20 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần 100.000 m3 đất được đào đắp công phu. Trong thành có nhiều công trình như điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu... rất nguy nga, tráng lệ chẳng khác gì kinh đô Thăng Long.
Kiến trúc và kỹ thuật xây dựng của thành Tây Đô được đánh giá là rất khoa học và đỉnh cao về kỹ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Các phiến đá được đục đẽo vuông vức, công phu xếp đan xen theo hình múi bưởi để tránh rung chấn lớn như động đất. Giữa các phiến đá xây thành không có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm qua dù chịu rất nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá.
Với các giá trị lịch sử, kiến trúc, năm 2011 thành nhà Hồ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đây cũng là một trong những di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam.
Câu 5: Nhà Hồ đã cải cách đất nước ở lĩnh vực nào?